Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011

Trung Quốc tranh mua gỗ tại Việt Nam

Từ đầu năm 2010 đến nay, thị trường nguyên liệu gỗ cao su, tràm bông vàng, bạch đàn… ở các tỉnh miền Đông trở nên sôi động, giá tăng mạnh do thương nhân Trung Quốc lùng mua.
Đồ gỗ Việt Nam có lợi thế từ rừng trồng trong nước. Ảnh: Lê Quang Nhật
“Chỉ trong buổi sáng nay, tôi tiếp năm khách hàng Trung Quốc tới mua gỗ cao su”. Chiều 12.4, ông Trần Công Bình, giám đốc công ty cổ phần Công nghiệp và xuất nhập khẩu cao su (RUBICO) nói. RUBICO là đơn vị chuyên mua bán vườn cao su thanh lý, sau đó chế biến gỗ, hàng mỹ nghệ xuất khẩu. Ông Bình cho biết, đang có hiện tượng giới thương nhân Trung Quốc đổ vào các tỉnh miền Đông mua gỗ nguyên liệu.
Cỡ nào cũng mua
Nhiều doanh nghiệp tư nhân chuyên sơ chế gỗ cao su ở tỉnh Bình Dương, Đồng Nai cũng cho biết, đơn hàng gỗ cao su bán cho thương nhân Trung Quốc tăng mạnh từ đầu năm đến nay. Còn theo bà Ngô Hồng Thu, phó tổng giám đốc công ty cổ phần tập đoàn kỹ nghệ gỗ Trường Thành, đơn vị này bán nhiều gỗ cao su cho Trung Quốc bắt đầu từ tháng 3.2010, trước đó chỉ cung cấp cho các doanh nghiệp nội địa.
Một nguồn tin của Sài Gòn Tiếp Thị ở Bình Dương cho biết, các thương nhân Trung Quốc đã gia tăng thu mua gỗ cao su ở Việt Nam từ cuối năm 2009, tuy nhiên việc thu mua này thực sự bùng nổ từ sau tết Nguyên đán, đến nay vẫn chưa thấy có dấu hiệu giảm. Việc “săn lùng” gỗ đã đẩy giá mặt hàng này tăng khoảng 5 – 10% so với cuối năm 2009. Hiện nay, giá 1m3 gỗ cao su 280 – 285 USD.
Bà Ngô Hồng Thu dự báo, thời gian tới giá còn tăng do nhu cầu mua gỗ nguyên liệu từ phía Trung Quốc vẫn còn rất lớn. Một số đầu mối chuyên cung cấp gỗ ở Đồng Nai còn cảnh báo, nếu không đặt hàng mua ngay thì qua tháng sau giá sẽ tăng thêm nữa. Ngoài ra, thời gian giao hàng kéo dài hơn do khan hiếm gỗ, trước đây thì họ giao hàng gỗ xẻ trong vòng mười ngày, gỗ ghép tấm trong 15 – 20 ngày, nay phải sau 30 ngày.
“Thương nhân Trung Quốc thường mua số lượng lớn, quy cách nào cũng mua, trả bằng tiền mặt”, một cơ sở sơ chế gỗ ở Bình Dương nói thêm. Họ còn chủ động ứng tiền cho các xưởng xẻ mua gỗ. Vì vậy, gỗ tròn để xẻ thành gỗ thanh cũng đang khan hiếm.
Theo tập đoàn Cao su Việt Nam, trung bình mỗi năm Việt Nam thanh lý ra khoảng 500.000m3 gỗ cao su. Lượng gỗ này sẽ được bán đấu giá cho các đơn vị sử dụng làm nguyên liệu sản xuất đồ gỗ xuất khẩu.
Bà Ngô Hồng Thu vừa có chuyến khảo sát từ Trung Quốc về cho hay, nguyên liệu gỗ trồng, nhất là cao su, tràm bông vàng ở Trung Quốc khá khan hiếm, giá đắt đỏ. Nếu như 1m3 gỗ cao su ở Việt Nam có giá chỉ 280 – 285 USD, cộng thêm cước vận chuyển thì vẫn rẻ hơn so với giá bán tại Trung Quốc là 340 USD. “Chênh lệch giá quá lớn và nguồn gỗ tại Việt Nam còn dồi dào đã thu hút thương nhân Trung Quốc vào mua”, bà Thu nói.
Do có sự chênh lệch giá cao, nên mặc dù nguồn nguyên liệu gỗ trong nước luôn thiếu thì vẫn có nhiều doanh nghiệp đem bán gỗ. Bà Thu cho rằng, nhiều doanh nghiệp lớn như Trường Thành có năng lực tài chính mạnh, dự trữ được nguyên liệu nên có thể cân đối lượng gỗ đưa vào chế biến, trường hợp dư thừa vẫn có thể bán bớt ra. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp vốn nhỏ, khi có đơn hàng mới mua nguyên liệu thì việc thị trường nguyên liệu tăng giá sẽ bị ảnh hưởng lớn.
Áp lực đè lên doanh nghiệp trong nước
Ông Trần Quốc Mạnh, phó chủ tịch hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.HCM nói: “Đồ gỗ Việt Nam cạnh tranh với hàng Trung Quốc một phần dựa vào nguyên liệu gỗ trồng trong nước rẻ hơn, nhưng nay lại bị cạnh tranh nguyên liệu ngay tại sân nhà thì sẽ gặp khó khăn. Nếu thương nhân Trung Quốc tiếp tục qua mua vét gỗ, sẽ tạo nên cơn sốt giá, khan hiếm nguyên liệu và các doanh nghiệp trong nước phải mua giá cao, từ đó sản phẩm đồ gỗ làm ra sẽ khó cạnh tranh”.
Việt Nam vẫn phải nhập khẩu tới 80% gỗ nguyên liệu, trong nước chỉ đáp ứng được 20%, trong đó gỗ cao su là một loại rất quan trọng, ông Mạnh nói. Ngoài ra, ông Mạnh cũng khẳng định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp làm đồ gỗ Việt Nam không thể bằng doanh nghiệp Trung Quốc vì quy mô vốn nhỏ, năng lực quản lý hạn chế nên không thể “đua” giá mua nguyên liệu với doanh nhân Trung Quốc.
Ông Hồ Năm, giám đốc công ty đồ gỗ xuất khẩu Phát Thành cho biết, từ tháng 2.2010 đến nay gỗ cao su, tràm tăng khoảng 5 – 7%, gỗ thông tăng đến 30% so với thời điểm trước tết Nguyên đán. “Mọi thứ đều tăng đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ khi không tăng được giá bán đầu ra”, ông Hồ Năm nói.
Hiện ngành chế biến gỗ đang chuẩn bị bước vào mùa hàng mới. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có nguồn lực tài chính mạnh để mua nguyên liệu dự trữ nên việc khan hiếm gỗ, giá tăng sẽ ảnh hưởng nhiều đến các đơn hàng xuất khẩu.

Cămpuchia – thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu chính cho Việt Nam

Cămpuchia – thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu chí
Cămpuchia – thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu chí
Theo số liệu thống kê sơ bộ, trong tuần từ ngày 1/4/2009 đến ngày 9/4/2009, kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu các loại của Việt Nam đạt trên 12 triệu USD, giảm khoảng 1 triệu USD so với kim ngạch nhập khẩu tuần trước. Như vậy, từ đầu năm đến nay, nhập khẩu gỗ nguyên liệu liên tục ở mức thấp so với năm 2008. Điều này phần nào cho thấy ngành xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam đang trong giai đoạn khó khăn vì thiếu hợp đồng xuất khẩu.

Trong tuần, kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ thị trường Cămpuchia tăng mạnh, đạt trên 3 triệu USD. Nhập khẩu gỗ trắc và gỗ hương xẻ từ thị trường Cămpuchia tiếp tục tăng mạnh. Giá nhập khẩu gỗ hương nguyên liệu từ thị trường Cămpuchia trung bình tuần ở mức 1.461 USD/m3, giảm 3 USD/m3, so với tuần trước. Giá nhập khẩu gỗ cao su nguyên liệu từ Cămpuchia vẫn ổn định ở mức 220-240 USD/m3-DAF.

Đứng thứ 2, sau Cămpuchia là thị trường Lào. Kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu của Việt Nam từ thị trường Lào trong tuần chiếm 24% tổng kim ngạch nhập khẩu. 32% kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyênliệu từ thị trường Lào là kim ngạch nhập khẩu gỗ chò, giá nhập khẩu gỗ chò trung bình ở mức 220 USD/m3. Loại gỗ có kim ngạch nhập khẩu lớn thứ 2 là gỗ gõ, chiếm tỷ trọng 27%. Giá nhập khẩu gỗ gõ trung bình ở mức 300 USD/m3.

Kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ thị trường Malaysia chiếm 14% kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu trong tuần. Hơn 50% kim ngạch  nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ thị trường này là gỗ tạp.Giá nhập khẩu gỗ tạp trung bình ở mức 131 USD/m3, giảm 16 USD/m3 so với mức giá nhập trung bình tuần trước. Lượng ván dăm nhập khẩu trong tuần tăng gấp đôi so với tuần trước về lượng, đạt trên 4,6 nghìn m3, giá nhập khẩu ván dăm trong tuần trung bình ở mức 122 USD/m3, giảm 23 USD/m3 so với mức giá nhập trung bình tuần trước.

Nhập khẩu gỗ hương nguyên liệu tiếp tục tăng so với tuần trước, đạt gâầ 2 triệu USD. Gỗ bạch đàn là chủng loại gỗ nguyên liệu có kim ngạch nhập khẩu lớn thứ 2, đạt trên 1 triệu USD, tăng hơn 20% so với tuần trước. Giá nhập khẩu gỗ bạch đàn trong tuần trung bình ở mức 205 USD/m3, thấp hơn so với mức giá nhập trung bình tuần trước 30 USD/m3. Các chủng loại gỗ nguyên liệu nhập khẩu lớn tiếp theo trong tuần là gỗ tạp, gỗ gõ, gỗ trắc....

Cơ cấu thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu cho Việt Nam tuần từ 1/4 đến 8/4/2009 (tỷ trọng tính theo kim ngạch)
Cămpuchia
31%
Lào
24%
Malaysia
14%
New Zealand
4%
Trung Quốc
4%
Mỹ
4%
Braxin
4%
PNG
3%
Thị trường khác
12%

Cung cấp gỗ tốt nhất,giá tốt nhất cho người có nhu cầu

Nhận cung cấp gỗ số lượng lớn theo yêu cầu khách hàng, có nguồn hàng ổn định, giá cả cạnh tranh, đảm bảo đủ số lượng yêu cầu,
Bán gỗ nguyên liệu số lượng lớn.
Cung  cấp các loại gỗ xây dựng gỗ làm nguyên liệu đặc biệt cừ tràm bông vàng số lượng cực lớn
Cung cấp gỗ đường kính > 25cm
Bạn quan tâm đến gỗ các loại,xẽ gỗ theo yêu cầu,nhận đóng ghe tàu gỗ uy tín chất lượng.
LH :  0918352339 (Đăng Khoa) để có giá tốt nhất




Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Xuất khẩu gỗ có nhiều tín hiệu khả quan

 
Bộ NN&PTNT cho biết, tháng 9, xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 320 triệu USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 2,6 tỷ USD. Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 2,43 tỷ USD, tăng tới 37,7% so với cùng kỳ năm trước.


Xuất khẩu sản phẩm gỗ đã và đang có bước phát triển mạnh. Trong những năm qua, các sản phẩm gỗ chế biến đã được xuất khẩu trên 3.000 mặt hàng khác nhau. Hiệp hội Lâm sản và gỗ Việt Nam (Vietforest) cho biết, hiện nay sản phẩm gỗ của Việt Nam có mặt tại 120 thị trường nước ngoài, với các thị trường chủ lực như: Mỹ, EU và Nhật Bản, Đài Loan, Úc, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia…


Hiện, ngành gỗ đứng thứ năm trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á.

Theo nhận định của Hiệp hội Lâm sản và đồ gỗ, dù còn nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng xuất khẩu gỗ đang có những tín hiệu khả quan vì các đơn hàng xuất khẩu từ nay đến cuối năm còn nhiều, đặc biệt là những đơn hàng có khối lượng xuất khẩu lớn sang các thị trường chủ lực như Mỹ, EU…

Được biết, hiện cả nước có hơn 2.500 doanh nghiệp chế biến gỗ, tăng 2,8 lần so với năm 2000 và 7,7 lần so với năm 1990. Trong đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm hơn 90%. Với số lượng doanh nghiệp lớn này đã và đang đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất của ngành gỗ trong nước.

(InfoTV)

Xuất khẩu gỗ có nhiều tín hiệu khả quan

 
Bộ NN&PTNT cho biết, tháng 9, xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 320 triệu USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 2,6 tỷ USD. Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 2,43 tỷ USD, tăng tới 37,7% so với cùng kỳ năm trước.


Xuất khẩu sản phẩm gỗ đã và đang có bước phát triển mạnh. Trong những năm qua, các sản phẩm gỗ chế biến đã được xuất khẩu trên 3.000 mặt hàng khác nhau. Hiệp hội Lâm sản và gỗ Việt Nam (Vietforest) cho biết, hiện nay sản phẩm gỗ của Việt Nam có mặt tại 120 thị trường nước ngoài, với các thị trường chủ lực như: Mỹ, EU và Nhật Bản, Đài Loan, Úc, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia…


Hiện, ngành gỗ đứng thứ năm trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á.

Theo nhận định của Hiệp hội Lâm sản và đồ gỗ, dù còn nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng xuất khẩu gỗ đang có những tín hiệu khả quan vì các đơn hàng xuất khẩu từ nay đến cuối năm còn nhiều, đặc biệt là những đơn hàng có khối lượng xuất khẩu lớn sang các thị trường chủ lực như Mỹ, EU…

Được biết, hiện cả nước có hơn 2.500 doanh nghiệp chế biến gỗ, tăng 2,8 lần so với năm 2000 và 7,7 lần so với năm 1990. Trong đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm hơn 90%. Với số lượng doanh nghiệp lớn này đã và đang đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất của ngành gỗ trong nước.

(InfoTV)

Giá nguyên liệu gỗ nhập khẩu tăng

 
Chín tháng đầu năm 2010, xuất khẩu gỗ ước đạt hơn 2,3 tỉ USD, tăng 37% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo nhiều doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu sản phẩm gỗ, giá nguyên liệu gỗ nhập khẩu tiếp tục có xu hướng tăng.Từ cuối tháng 9 đến nay, hầu hết các loại gỗ cứng nhập khẩu từ châu Âu, Mỹ, New Zealand đều tăng 10-15%.
Trong đó tăng mạnh nhất là các loại gỗ sồi, thông. Nguyên nhân do nhu cầu nhập gỗ nguyên liệu trên thế giới tăng mạnh. Chín tháng đầu năm 2010, xuất khẩu gỗ ước đạt hơn 2,3 tỉ USD, tăng 37% so với cùng kỳ năm ngoái.
(InfoTV)

Tìm hướng đi cho các doanh nghiệp ngành gỗ


Tim huong di cho cac doanh nghiep nganh go
- Hôm nay 20/5, tại Hà Nội, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam tổ chức hội thảo với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp chế biến gỗ để thực hiện nghị quyết 11/CP của Chính phủ góp phần quản lý rừng bền vững'.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (2008) ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã dần phục hồi trở lại và có những bước phát triển ổn định hơn trong năm 2009 và 2010 (năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành gần 2,6 tỷ USD, năm 2010 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 3,4 tỷ USD...Tuy nhiên bước sang năm 2011 đang gặp phải không ít những khó khăn, phải đối mặt với những rào cản thương mại từ nước ngoài (như LACEY, FLEGT, REACH ....), trong nước thì gặp những khó khăn về tài chính, ngân hàng, lãi xuất vay cao, tỷ giá hối đoái chưa ổn định, nguồn ngoại tệ của các ngân hàng thiếu, khó khăn về nguyên liệu. Một số thị trường trọng điểm về xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam đang phải ứng phó với thiên tai lớn như Nhật Bản hoặc một số nước của EU chưa khắc phục được tình trạng thâm hụt tài chính sẽ có tác động mạnh đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gỗ Việt Nam.
Trước tình hình trên, Hiệp hội gỗ và lâm sản đã tổ chức hội thảo này nhằm giúp các doanh nghiệp quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh xã hội.
Tại hội thảo, ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam khuyên các doanh nghiệp trước mắt cần tập trung vào 7 giải pháp chủ yếu: Thứ nhất, dừng và tạm hoãn xây dựng mới các công ty xây dựng chế biến và mua sắm trang thiết bị mới. Thứ hai, khuyến khích các doanh nghiệp gỗ sử dụng gỗ rừng trồng trong nước để thay thế dần cho gỗ nhập khẩu. Thứ ba, tiết kiệm nguyên liệu gỗ bằng việc sử dụng công nghệ tiên tiến. Thứ tư, các doanh nghiệp chủ động xây dựng định mức nội bộ và quy trình quản lý sản xuất theo hướng tổ chức sản xuất kinh doanh mang tính chuyên nghiệp cao. Thứ năm, tìm mọi giải pháp nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành. Thứ sáu, đẩy mạnh việc thâm nhập vào thị trường các nước theo hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) để tận dụng các ưu đãi về thuế và mở cửa thị trường. Thứ bảy, tìm ra những cơ hội mới tại các thị trường đang gặp khó khăn về thiên tai hoặc thị hiếu của người tiêu dùng.
Chia sẻ khó khăn với các doanh nghiệp, ông Vũ Long – Chuyên gia kinh tế Lâm nghiệp VIFA dự báo rằng: nhu cầu về sản phẩm gỗ trên thị trường thế giới đang có chiều hướng tăng cao, đặc biệt là tại các thị trường chính như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và các thị trường Trung Đông...Trong khi đó thì nguồn cung đang bị hạn chế do khan hiếm về nguyên liệu. Cũng trong Quý I/2011, nhập khẩu gỗ của Việt Nam tiếp tục duy trì ở mức khá cao và tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm được làm từ gỗ rừng trồng trong nước của Việt Nam cũng liên tục tăng. Dự báo, trong năm 2011, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 10-15%.
Trước tình hình trên, ông Vũ Long khuyên các doanh nghiệp nên tiến hành rà soát các vùng chuyên canh nguyên liệu tập trung với quy mô đủ lớn gắn với các nhà máy chế biến gỗ, nhằm giảm thiểu chi phí vận chuyển nguyên liệu; Đầu tư các giải pháp khoa học công nghệ, nghiên cứu, tuyển chọn giống cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, có đặc tính phù hợp với sản xuất công nghiệp đáp ứng nhu cầu sử dụng nguyên liệu xuất khẩu và nội địa; Đầu tư thích ứng với công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về giống, kỹ thuật trồng rừng, chăm sóc bảo vệ rừng cho người tham gia trồng rừng thông qua chương trình khuyến lâm; Các doanh nghiệp chế biến gỗ cùng với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia đầu tư, trồng rừng nguyên liệu để có nguồn nguyên liệu ổn định.

Xuất khẩu đồ gỗ khó với được 3 tỷ USD


Xuất khẩu đồ gỗ khó với được 3 tỷ USDCăn cứ vào tình hình xuất khẩu đồ gỗ 2 tháng đầu năm, Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản VN - ông Nguyễn Tôn Quyền, quan ngại: mục tiêu 3 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2009 mà Bộ Công Thương đề ra là khó khả thi.
Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam tính từ năm 2000 đến nay luôn có mức tăng trưởng rất cao, trung bình khoảng 25%, thậm chí 50%. Năm 2006, con số này là 2,2 tỷ USD, năm 2007 đạt 2,4 tỷ USD và năm 2008 là 2,8 tỷ USD.

Tiếp nối đà tăng đó, năm 2009, Bộ Công Thương dự kiến con số 3,2 tỷ USD. Tuy nhiên, kết quả hai tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt lần lượt là 130 và 180 triệu đôla - bằng một nửa so với cùng kỳ năm trước.

Ông Nguyễn Tôn Quyền - Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản VN (Vifores), tại hội thảo Thực trạng và khuyến nghị hoàn thiện chính sách và các giải pháp phát triển bền vững ngành công nghiệp gỗ Việt Nam, diễn ra sáng 18/3 tại Hà Nội, dự báo nhiều khả năng kim ngạch xuất khẩu tháng 4 này của cả nước cũng chỉ đạt hơn 200 triệu USD.
“Trong khi quý I và quý IV thường là mùa sôi động nhất trong năm. Nếu hai quý này chúng ta không kiếm được 50% cả năm thì coi như là thua” - ông Quyền nói.

Không chỉ giảm xuất khẩu, việc xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn như Đạo luật Lacey của Mỹ, Hiệp định Tăng cường Thực thi Luật Lâm nghiệp, Quản trị rừng và Buôn bán gỗ (FLEGT) của EU cũng tạo rất nhiều thách thức với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến gỗ nước ta khi không phải doanh nghiệp nào cũng nắm rõ được nguồn gốc gỗ nhập về.

Trước thực trạng khó khăn kể trên, Tổng thư ký Vifores khuyến nghị, doanh nghiệp cần chủ động, mở rộng các chương trình xúc tiến thương hiệu, đến các thị trường mới ngoài những thị trường truyền thống Mỹ, EU, Nhật Bản.

Bằng kinh nghiệm khảo sát từ các thị trường mới như Nga, Trung Đông, Nam Mỹ của Vifores vừa qua, ông Quyền gợi ý Nga đang là một thị trường rất triển vọng với nhu cầu nhập khẩu đồ gỗ mỗi năm chừng 10 tỷ USD.

Tuy nhiên, có một số vướng mắc như đồng tiền chuyển đổi khó, thuế nhập khẩu cao đồng thời thị trường này thường sử dụng gỗ từ ván nhân tạo, ít dùng gỗ rừng tự nhiên. Cho nên để thâm nhập cũng phải cần một khoảng thời gian, ít nhất từ 3-6 tháng kể từ ngày đi khảo sát.

Về phía Nhà nước, để hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp, đại diện Vifores nhấn mạnh cần tập trung vào các chính sách, giải pháp về thuế, tài chính và thị trường.

Cụ thể, miễn, giảm thuế xuống còn 0% với các mã như ván sàn, ván thanh, đồ gỗ xây dựng...; giãn nợ, giảm lãi suất ngân hàng, thủ tục cho vay thuận tiện đồng thời áp dụng hình thức cứ xuất khẩu được 1 USD, nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp 20 đồng Việt Nam. Số tiền này để giúp doanh nghiệp tìm kiếm, khảo sát thị trường - đó là cách làm rất hữu hiệu - ông Quyền đánh giá.

Nghề làm Gỗ Lũa ở Hà Nội

Gỗ lũa kết hợp với cây cảnh, đá cảnh là thú chơi và thưởng thức nghệ thuật của ông cha truyền lại. Ở Hà Nội, người làm được gỗ lũa nghệ thuật không nhiều nhưng từ lâu nó đã trở thành mặt hàng cao cấp được ưa chuộng không chỉ với người Việt Nam mà cả người nước ngoài.
ban-ghe-lua3
Gỗ lũa là phần lõi bên trong của các gốc cây cổ thụ khô. Là phần gốc, lại là lõi nên gỗ lũa rất cứng, không bao giờ bị mục nát, mối mọt. Từ đây, những nghệ nhân với trị tuệ sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo đã làm nên những vật phẩm để trang trí nội thất, ngoại thất.
Lũa cây có ở suối, núi và đồng bằng, những lũa cây nằm ở đáy suối hoặc ngang dòng suối chảy, được nước suối sói mòn thường là những cây lũa đẹp, có độ đen bóng, có thời gian tương đối dài vì chục năm có khi hàng trăm năm. Loại này được giữ lâu bền, chính vì vậy mà có giá trị cao, những lũa cây trong các khu rừng sâu, trên đèo núi, có nhiều chủng loại, về sáng thế cũng đa dạng, màu sắc uyển chuyển theo mùa của muôn ngàn cây rừng.
Ngày nay người đi rừng, lên núi ngày một tăng để tìm cây về bán cho làng chơi lũa, những lũa cây thuộc khu vực trung du, đồng bằng tuy có cũng nhiều nhưng giá trị vật chất không cao vì phần lớn các cây ở dạng thảo mộc, bán thảo mộc hoặc thiên về phần gỗ thịt không lâu năm, do đó ít lõi, dù thiên nhiên hay con người tạo thành cũng khó có thể giữ được bền lâu.
Điêu khắc gỗ lũa là một công việc đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sự say mê. Trước hết, nghệ nhân cần có óc sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú để có thể nhận ra những hình ảnh sống động từ những rễ cây khô khốc và xấu xí. Ngoài ra cũng cần một số kiến thức về lâm nghiệp để biết gốc cây làm gỗ lũa. Ví dụ, các loại gỗ sao, gỗ hương phải trên 100 tuổi, gỗ mít, gỗ rừng phải được 70- 80 tuổi, xà cừ cũng phải trên 60 năm.
Sau khi có nguyên liệu, bắt đầu quá trình pha chế. Đối với những gốc còn tươi, cần 1- 2 tháng để khô và bớt nhựa. Sau đó, người ta phải khéo léo gọt bỏ phần vỏ ngoài và phần mềm sát vỏ, chỉ lấy phần lõi cây, đó chính là gỗ lũa.
Từ gỗ lũa, bắt đầu quá trình tạo dáng sản phẩm. Lúc này, nghệ nhân phải cân nhắc, suy ngẫm thật kỹ để chọn lựa hình dáng, thế lũa. Có những khi, chỉ một gốc cây mà băn khoăn mãi, đến cả mấy tháng trời mà vẫn chưa tìm ra ý tưởng gì hay.
Gỗ lũa rất cứng, vì vậy việc tạo hình sản phẩm đòi hỏi nghệ nhân phải rất kiên nhẫn với từng nhát dao, đường khắc. Nghệ nhân tỉ mẩn gọt giũa, có khi phải mất mấy ngày chỉ để chuốt một cái đuôi con rắn đang quấn vào một thân cây hay cần cả buổi để đẽo một cái miệng con sư tử đang há ra dữ tợn...
Làm ra được sản phẩm gỗ lũa không giống như sản xuất đồ gỗ thông thường. Mỗi sản phẩm là một tác phẩm đơn chiếc, có thời gian và cách thức làm khác nhau, hầu hết làm bằng phương pháp thủ công, không thể dùng công nghệ để sản xuất hàng loạt được, người làm gỗ lũa ngoài trí tuệ, khả năng sáng tạo, năng khiếu trình độ tạo hình còn cần có bàn tay khéo léo để biến ý tưởng thành hiện thực.Chính vì vậy, giá thành của sản phẩm không phụ thuộc vào kích cỡ mà ở giá trị nghệ thuật, sự kết tinh từ bàn tay, khối óc con người. Do đó có tác phẩm giá vài trăm ngàn đồng, có tác phẩm lên tới vài triệu đồng, có khi vô giá.
Gỗ có kích thước lớn, thường được tạo mặt bàn nước. Điều kiện đầu tiên là gốc phải có thế đứng vững, cân bằng. Bề mặt bàn phải phẳng, còn hình dáng mặt bàn lại tuỳ theo trí tưởng tượng của những người nhìn ngắm chúng. Có người nói rằng đó là hình một con cá đang bơi, người khác bảo là một con hà mã.
Phần chân bàn cũng có nhiều dáng vẻ. Khi là một con rồng, lúc lại là con báo vồ mồi, khi khác là một thợ săn đang giương cung... Ghế ngồi cũng “thiên hình vạn trạng”: cái đầu ngựa, một con hươu hoặc một chú kỳ đà đang bám trên một khúc gỗ nhỏ. Đôi khi, chỉ đơn giản là hai thanh gỗ khác màu quấn vào nhau...
Thông thường, để tạo ra một bộ bàn ghế, phải mất ít nhất từ 1- 2 tháng. Bởi vì, không chỉ tạo hình và điêu khắc, nghệ nhân còn phải qua nhiều công đoạn khác nhau như chuốt gỗ, làm bóng, đánh vecni.. Công đoạn nào cũng cần sự tỉ mỉ, cẩn thận đển trau chuốt và sự cảm nhận nghệ thuật tinh tế. Chỉ một lỗi nhỏ như pha sơn bóng không đủ liều lượng, đánh vecni không đều tay... đều có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Sau khi đã hoàn chỉnh, các sản phẩm này có thể trường tồn với thời gian. Có những bộ bàn ghế để ngoài trời, mặc mưa to gió lớn, dù bị dầm nước lũ cả tháng vẫn chẳng hề gì. Vì vậy, nếu mỗi bộ bàn ghế hiện nay bán với giá từ 3- 5 triệu, thì đó hoàn toàn là “lấy công làm lãi”.
Tại Thủ đô Hà Nội, gia đình nghệ nhân Phạm Huy Cung nổi tiếng chơi sinh vật cảnh từ nhiều đời nay, do yêu thiên nhiên, yêu nghệ thuật, ông đã đi sâu vào tìm hiểu lĩnh vực này. Vốn là hoạ sĩ, ông lang thang đến những vùng rừng núi, mang về những gốc cây già tưởng như đã bỏ đi. Bằng tài năng và trí tuệ của mình ông đã biến chúng thành những tác phẩm mang đầy tính nghệ thuật, mỗi tác phẩm mang hình tượng đặc trưng khac nhau, có lúc là con rồng, con hươu, con chim, chùm nho, con sóc, mặt người cổ... lúc lại có dáng như nhất sơn, nhị sơn, tam sơn, thế trực, thế huyền... có khi là những vận dụng như bàn ghế, nơi cắm ha, gắn gương trang trí...
Sau nhiều năm say mê với gỗ lũa, 2 vợ chồng ông đã cho ra đời biết bao tác phẩm nghệ thuật, trong đó đáng kể nhất là tác phẩm có lên Long Vân khánh hội, đó là biểu tượng con rồng thế kỷ đang vặn mình bay lên gặp mây vàng, đầu ngoái lại nơi xuất phát, tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc.
Hiện tác phẩm được trưng bày tại UBND thành phố Hà Nội, được tạc từ gốc cây nguyên khổ có đường kính 4m, cao 3m, kẹt giữa núi đá hiểm trở vùng rừng sâu Hoà Bình. Bà Nguyễn Hương Ngọc, vợ ông là đồng tác giả cho biết để làm được tác phẩm này, vợ chồng ông bà đã mất 10 năm trăn trở. Từ việc khai thác vôi trong rừng đến ý tưởng sáng tạo kết hợp với sự khéo léo của bàn tay chăm chút, cắt gọt, đánh bóng tạo nên hình ảnh con vật linh thiêng của Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Điểm thuận lợi là hiện nay, nguyên liệu gỗ lũa tương đối phong phú. Thành phố nâng cấp, nhiều cây xà cừ cổ thụ hàng trăm năm bị đốn ngã. Nhiều hộ ở nông thôn cải tạo vườn, chặt bỏ những cây mít hàng trăm tuổi. Gỗ mít màu vàng, lõi bên trong màu đỏ. Do sẵn có, đỡ mất tiền công khai tác và vận chuyển nên sản phẩm tạo từ gỗ mít thường có giá rẻ hơn các loại.
Hiện nay, trên thị trường gỗ lũa được bày bán không nhiều, để mua một sản gỗ lũa nghệ thuật, người ta phải tìm đến những gia đình sành chơi sinh vật cảnh. Khác với các loại nghệ thuật khác, nghệ thuật gốc cây gỗ lũa phải biết khai thác nhưng luôn tôn trọng dáng vẻ tự nhiên. Cùng với bàn tay khéo léo, người nghệ nhân dùng những kỷ xảo thổi vào những vật vô tri vô giác làm chúng trở nên sống động, có hồn. Sản phẩm gỗ lũa đã góp phần làm phong phú cho những loại hình nghệ thuật độc đáo ở Việt Nam.

Giao dịch mua bán gỗ tại Phần Lan giảm

Giao dịch mua bán gỗ tại Phần Lan giảm

Giao dịch mua bán gỗ tại Phần Lan giảmGiao dịch mua bán gỗ với các nhà sở hữu rừng tư nhân trong tháng 2 đạt 550.000 m3, giảm hơn một nửa so với mức của tháng 1.
Sự suy giảm nhanh chóng về nhu cầu xuất khẩu diễn ra từ cuối năm 2008. Suy thoái kinh tế tại các thị trường chính ở châu Âu tiếp tục xấu đi ở đầu năm 2009 và nhu cầu về các sản phẩm thấp hơn so với mức bình thường. Điều này gây tác động tới sự thu mua nguyên liệu gỗ thô trong tháng 2. Trên 90% sản lượng giấy và paperboard được xuất khẩu ra nước ngoài và thị phần xuất khẩu các mặt hàng này chiếm khoảng 60% của cả ngành sản phẩm gỗ.
Phần lớn sản lượng 1,9 triệu m3 gỗ được mua trong tháng 1 và tháng 2 là mua từ các nhà sở hữu rừng tư nhân, giảm 46% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó giao dịch gỗ thông thô trong hai tháng 1 và 2 giảm 37%, gỗ vân sam thô giảm 29% và gỗ bulô thô giảm 51% so với cùng kỳ năm trước. Gia dịch gỗ giấy từ vân sam giảm 40% và gỗ giấy từ bulô giảm 57% so với tháng 1 và 2 năm 2008.
Giá gỗ giấy tăng khaỏng 1% so với tháng 1, trong khi phí quyền khai thác gỗ mềm thô giảm 3% và phí quyền khai thác gỗ thô bulô giảm 6%. Cụ thể, phí quyền khai thác trung bình gỗ thông thô và vân sam thô là 45 Eur/m3, gỗ bulô thô là 40 Euro/m3, gỗ thông và gỗ giấy bulô là 14-15 Euro/m3, gỗ giấy vân sam là 20 Euro/m3.

Gỗ, công dụng của gỗ, ưu và nhược điểm của gỗ

Gỗ là một dạng tồn tại vật chất có cấu tạo chủ yếu từ các thành phần cơ bản như: xenluloza (40-50%), hemixenluloza (15-25%), lignin (15-30%) và một số chất khác. Nó được khai thác chủ yếu từ các loài cây thân gỗ.
Công dụng của gỗ

    * Sơ bộ thống kê hiện nay trên thế giới có khoảng trên 100 ngành dùng gỗ làm nguyên, vật liệu với trên 22.000 công việc khác nhau và sản xuất ra hơn 20.000 loại sản phẩm.
    * Gỗ là nguyên, vật liệu được con người sử dụng lâu đời và rộng rãi, là một trong những vật tư chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
    * Trong các văn kiện chính thức từ trước tới nay, chính phủ Việt Nam vẫn xếp gỗ đứng hàng thứ ba sau điện và than.
    * Gỗ được sử dụng rất rộng rãi trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc, xây dựng, khai khoáng.
    * Ngoài ra gỗ còn được dùng làm văn phòng phẩm, nhạc cụ, dụng cụ thể dục thể thao, đóng toa tầu, thùng xe, thuyền, phà, cầu cống, bàn ghế và dụng cụ học sinh, đồ dùng trong gia đình, công sở và chuyên dùng như bệnh viện, thư viện...

Ưu điểm của gỗ

    * Cách nhiệt, cách điện, ngăn ẩm tốt, nhiệt dãn nở bé.
    * Mềm nên có thể dùng các máy móc, dụng cụ để cưa, xẻ, bào, khoan, tách chẻ với vận tốc cao.
    * Dễ nối ghép bằng đinh, mộng, keo dán.
    * Có vân thớ đẹp, dễ nhuộm màu, dễ trang sức bề mặt.
    * Dễ phân ly bằng hóa chất dùng sản xuất giấy và tơ nhân tạo.
    * Là nguyên liệu tự nhiên, chỉ cần trồng, chăm sóc và dùng máy móc đơn giản để khai thác và chế biến là có được.

Nhược điểm và biện pháp khắc phục



    * Sinh trưởng chậm, đường kính có hạn, có nhiều khuyết tật tự nhiên. Cần sử dụng các biện pháp kĩ thuật lâm - sinh hợp lý trong công tác trồng và chăm sóc rừng.
    * Dễ mục, dễ bị sinh vật (mối, mọt,...) phá hoại. Cần phun tẩm các hóa chất chống mối mọt.
    * Đàn hồi thấp. Cần biến tính gỗ bằng phương pháp ép hoặc ngâm hóa chất.
    * Trong khi phơi sấy thường dễ nứt nẻ, cong vênh, biến hình. Cần có phương án cưa xẻ, bóc lớp thích hợp.
    * Trong thân thường có các chất chiết xuất, thường gây khó khăn cho công việc trang sức bề mặt sản phẩm, hoặc ăn mòn các công cụ cắt gọt.
    * Tỷ lệ co dãn cao, sản phẩm thường chịu tác động lớn của độ ẩm, nhiệt độ môi trường. Cần loại bỏ các yếu tố gây co dãn này:

        * Ngâm tẩm hóa chất nhằm thay thế các gốc (-OH) trong gỗ
        * Sấy gỗ để loại bỏ nước tự do và nước thấm khỏi gỗ. Sấy ở nhiệt độ 103±2oC

    * Dễ bắt lửa, dễ cháy. Cần ngâm tẩm hoặc sơn phủ các chất chống bắt lửa